Vai trò của người nông dân trong chuyển đổi số nông nghiệp

|

Vai trò của người nông dân trong chuyển đổi số nông nghiệp

Chuyển đổi số nô;ng nghiệp là cơ hội để Việt Nam thay đổi mô; hình sản xuất nhỏ lẻ, kém hiệu quả và thiếu liê;n kết chuỗi giá trị để thay vào đó là một nền nô;ng nghiệp minh bạch dữ liệu và thô;ng tin giúp nô;ng nghiệp Việt Nam vươn xa và có trách nhiệm hơn với người tiê;u dùng. Theo các chuyê;n gia, chuyển đổi số nô;ng nghiệp thành cô;ng phải bắt đầu từ nô;ng dân, coi người nô;ng dân là người đầu tiê;n và là gốc để chuyển đổi số.

Chuyển đổi số trong nô;ng nghiệp

Khái niệm nô;ng nghiệp số là việc sử dụng cô;ng nghệ kỹ thuật số để tích hợp sản xuất nô;ng nghiệp từ vùng canh tác, nuô;i trồng đến người tiê;u dùng. Những cô;ng nghệ này có thể cung cấp cho ngành nô;ng nghiệp các cô;ng cụ và thô;ng tin để đưa ra quyết định sáng suốt hơn, cải thiện năng suất và hỗ trợ quản lý hiệu quả.

 Ảnh minh họa 

Hiện sản xuất nô;ng, lâm nghiệp và thủy sản nước ta được tổ chức theo 3 hình thức sản xuất chủ yếu, gồm: Hộ, hợp tác xã, doanh nghiệp. Theo Tổng cục Thống kê;, tại thời điểm 1/7/2020 cả nước có 9.123 nghìn đơn vị sản xuất nô;ng, lâm nghiệp và thủy sản, trong đó có trê;n 9.108 nghìn hộ sản xuất; 7.418 hợp tác xã; 7.471 doanh nghiệp. Đây là một trong những thành phần quan trọng trong chuyển đổi số nô;ng nghiệp

Trong những năm qua, ngành nô;ng nghiệp cũng đã quan tâm nhiều hơn đến các giải pháp chuyển đổi số và ứng dụng cô;ng nghệ vào hầu hết các lĩnh vực của ngành. Đến nay, hầu hết các nhóm cô;ng nghệ số cơ bản trong nô;ng nghiệp đều đã được triển khai hoặc bắt đầu được thử nghiệm tại nước ta. Cụ thể, trong lĩnh vực trồng trọt, cô;ng nghệ nền tảng internet vạn vật (IOT), dữ liệu lớn (Big Data) được ứng dụng thô;ng qua các sản phẩm cô;ng nghệ số là phần mềm đã cho phép phân tích các dữ liệu về mô;i trường, loại cây và giai đoạn sinh trưởng của cây, qua đó giúp người tiê;u dùng có thể truy xuất và theo dõi giai đoạn sinh trưởng của cây theo thời gian thực…

Lĩnh vực chăn nuô;i, cô;ng nghệ IOT, cô;ng nghệ chuỗi khối (blockchain), cô;ng nghệ sinh học được áp dụng rộng ở trang trại chăn nuô;i quy mô; lớn.

Lĩnh vực lâm nghiệp, ứng dụng cô;ng nghệ DND mã mạch trong quản lý giống lâm nghiệp và lâm sản; cô;ng nghệ GIS và ảnh viễn thám để xây dựng các phần mềm phát hiện sớm và cảnh báo cháy rừng từ ảnh vệ tinh, phần mềm giám sát và phát hiện sớm mất rừng, suy thoái rừng...

Lĩnh vực thủy sản, chuyển đổi số mạnh mẽ với việc sử dụng thiết bị dò cá sử dụng sóng siê;u âm, máy đo dòng chảy, điện thoại vệ tinh; máy thu lưới vây (đứng); hệ thống thu-thả lưới chụp, cô;ng nghệ GIS và hệ thống định vị toàn cầu (GPS) giúp quản lý đội tàu khai thác hải sản xa bờ. Trong nuô;i trồng thủy sản, ứng dụng cô;ng nghệ nuô;i thủy sản tuần hoàn (RAS), cô;ng nghệ biofloc, cô;ng nghệ nano cũng đang được ứng dụng ngày càng phổ biến. Ngoài ra, cô;ng nghệ trí tuệ nhân tạo (AI) đã được sử dụng trong nuô;i tô;m nhằm phân tích các dữ liệu về chất lượng nước; quản lý thức ăn và sức khỏe tô;m nuô;i. Cô;ng nghệ tự động hóa trong khâu chế biến thủy sản, từ phân loại, hấp, đóng gói, dây chuyền sản xuất… giúp giảm chi phí sản xuất, đảm bảo chất lượng sản phẩm.

Cùng với các giải pháp chuyển đổi số và ứng dụng cô;ng nghệ trong hầu hết các lĩnh vực, nhiều doanh nghiệp nô;ng nghiệp đang thúc đẩy chuyển đổi số trong doanh nghiệp của mình. Tại một số doanh nghiệp, các trang trại sản xuất tập trung, quy mô; tương đối lớn, các cô;ng nghệ số đang được áp dụng khá đồng bộ. Điển hình Tập đoàn Lộc Trời đang ứng dụng các cô;ng nghệ số cho vùng trồng lúa; mô; hình “Canh tác lúa tốt nhất” của HTX Mỹ Đô;ng phối hợp với Cô;ng ty Rynan Smart Fertilizers; các vùng sản xuất rau an toàn của VinEco, Cô;ng ty Cầu Đất Farm và Cô;ng ty TNHH Đà Lạt GAP…

Ngoài ra, sản xuất nô;ng nghiệp Việt Nam đang bắt đầu thử nghiệm ứng dụng các cô;ng nghệ hiện đại khác như: Cô;ng nghệ máy bay khô;ng người lái để phun thuốc bảo vệ thực vật, bón phân; sử dụng robot để gieo hạt tự động, robot gắn các thiết bị cảm biến để thu thập và phân tích dữ liệu, sau đó đưa ra quyết đ???nh chăm sóc cây trồng phù hợp; sử dụng tế bào quang điện để sản xuất điện năng từ năng lượng mặt trời phục vụ cho sản xuất nô;ng nghiệp.

Với xu hướng sử dụng ngày càng nhiều các cô;ng nghệ số, nô;ng nghiệp Việt Nam đang dần chuyển đổi từ nô;ng nghiệp truyền thống sang nô;ng nghiệp hiện đại. Thô;ng qua chuyển đổi số đã mang đến những giá trị mới và bền vững cho sản xuất nô;ng nghiệp và cho thấy tầm quan trọng, tính cấp thiết của quá trình này. Khô;ng chỉ vậy, chuyển đổi số nô;ng nghiệp đã giúp nô;ng dân sản xuất với chi phí thấp nhất, nhưng bán ra với giá cao nhất. Người sản xuất được kết nối trực tiếp, đưa nô;ng sản tới tay người tiê;u dùng mà khô;ng qua khâu trung gian. Đồng thời, giúp mọi người kết nối với nhau dễ dàng hơn, thuận lợi hơn.

Bê;n cạnh những kết quả đạt được, quá trình chuyển đổi số nô;ng nghiệp trong thời gian qua vẫn còn những khó khăn như: Trình độ cơ giới hóa còn thấp, các cô;ng nghệ phụ trợ phục vụ phát triển nô;ng nghiệp (cơ khí, chế biến sâu, dây chuyền kiểm nghiệm sản phẩm nô;ng nghiệp…) chưa tương xứng; diện tích canh tác nhỏ; dự báo sản lượng các sản phẩm nô;ng nghiệp vẫn chủ yếu bằng kinh nghiệm; các doanh nghiệp nô;ng nghiệp đầu tư vào chuyển đổi số chưa nhiều; chất lượng nguồn nhân lực có chuyê;n mô;n cao trong nô;ng nghiệp số còn hạn chế; nhận thức và kỹ năng sử dụng cô;ng nghệ số của người nô;ng dân chưa cao.

Rõ ràng, tiềm năng chuyển đổi số trong nô;ng nghiệp còn rất lớn. Cô;ng tác chuyển đổi số nô;ng nghiệp đang nhận được sự ủng hộ của các cơ quan, bộ, ngành, doanh nghiệp. Sang đẩy mạnh chuyển đổi số nô;ng nghiệp trong thời gian tới cần sự vào cuộc mạnh mẽ hơn nữa của các bộ, ngành liê;n quan. Những người hưởng lợi trực tiếp từ chuyển đổi số, từng doanh nghiệp, nô;ng dân phải có trách nhiệm, tích cực tham gia vào xây dựng dữ liệu để tạo ra kho dữ liệu khổng lồ đáp ứng chuyển đổi số nô;ng nghiệp.

Theo Quyết định số 749/QĐ-TTg ngày 3/6/2020 của Thủ tướng Chính phủ về phê; duyệt Chương trình chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030, trong chuyển đổi số lĩnh vực nô;ng nghiệp sẽ phát triển nô;ng nghiệp cô;ng nghệ cao theo hướng chú trọng nô;ng nghiệp thô;ng minh, nô;ng nghiệp chính xác; tăng tỷ trọng của nô;ng nghiệp cô;ng nghệ số trong nền kinh tế. Thực hiện chuyển đổi số nô;ng nghiệp phải dựa trê;n nền tảng dữ liệu. Tập trung xây dựng các hệ thống dữ liệu lớn của ngành như về đất đai, cây trồng, vật nuô;i, thủy sản. Xây dựng mạng lưới quan sát, giám sát tích hợp trê;n khô;ng và mặt đất phục vụ các hoạt động nô;ng nghiệp. Thúc đẩy cung cấp thô;ng tin về mô;i trường, thời tiết, chất lượng đất đai để người nô;ng dân nâng cao năng suất và chất lượng cây trồng, hỗ trợ chia sẻ các thiết bị nô;ng nghiệp qua các nền tảng số. Ứng dụng cô;ng nghệ số để tự động hóa các quy trình sản xuất, kinh doanh; quản lý, giám sát nguồn gốc, chuỗi cung ứng sản phẩm, bảo đảm nhanh chóng, minh bạch, chính xác, an toàn, vệ sinh thực phẩm. Xem xét thử nghiệm triển khai sáng kiến “Mỗi nô;ng dân là một thương nhân, mỗi hợp tác xã là một doanh nghiệp ứng dụng cô;ng nghệ số” với mục tiê;u mỗi người nô;ng dân được định hướng, đào tạo ứng dụng cô;ng nghệ số trong sản xuất, cung cấp, phân phối, dự báo (giá, thời vụ,... ) nô;ng sản, đẩy mạnh phát triển thương mại điện tử trong nô;ng nghiệp.

Trong mục tiê;u chuyển đổi số của Bộ Nô;ng nghiệp và Phát triển nô;ng thô;n, Bộ sẽ tham gia vào tất cả quá trình quản lý, giám sát nguồn gốc; hình thành hệ sinh thái nô;ng nghiệp số nhằm khuyến khích người dân và doanh nghiệp tham gia vào chuyển đổi số, ứng dụng cô;ng nghệ số trong quy trình sản xuất, cung cấp dịch vụ nô;ng nghiệp. Bộ đặt mục tiê;u xây dựng 80% cơ sở dữ liệu số về nô;ng nghiệp, cập nhật trê;n nền tảng dữ liệu lớn (Big data) có sự đóng góp của tổ chức, cá nhân, cộng đồng am hiểu về tri thức nô;ng nghiệp, về các lĩnh vực cây trồng, vật nuô;i, thủy sản, chế biến… Người nô;ng dân được tiếp cận bản đồ số nô;ng nghiệp và được cung cấp dữ liệu mở của ngành phục vụ các hoạt động nô;ng nghiệp. Thúc đẩy cung cấp thô;ng tin về mô;i trường, thời tiết, chất lượng đất đai để người nô;ng dân nâng cao năng suất và chất lượng cây trồng, hỗ trợ chia sẻ các thiết bị nô;ng nghiệp qua các nền tảng số.

Vai trò của người nô;ng dân trong chuyển đổi số nô;ng nghiệp

Ứng dụng cô;ng nghệ số vào sản xuất, phân phối nô;ng sản đang trở thành xu thế tất yếu của ngành nô;ng nghiệp. Để chuyển đổi số nô;ng nghiệp thành cô;ng cần thiết phải đồng hành cùng nô;ng dân, hỗ trợ nô;ng dân ứng dụng cô;ng nghệ số vào sản xuất. Người nô;ng dân trong chuyển đổi số nô;ng nghiệp khô;ng chỉ đóng vai trò chủ lực mà còn là nhóm cần được quan tâm nhất. Hàng hóa nô;ng sản của Việt Nam trê;n thị trường hiện chủ yếu do người nô;ng dân sản xuất ra. Phần lớn người nô;ng dân hiện nay đang sử dụng thường xuyê;n thiết bị điện thoại di động. Do đó, áp dụng chuyển đổi số trong nô;ng nghiệp người nô;ng dân sẽ là đối tượng dễ dàng và tiếp cận trực tiếp để đưa các cô;ng nghệ lĩnh vực khoa học kỹ thuật mới cũng như thúc đẩy kê;nh kết nối tiê;u thụ sản phẩm đầu ra vào trong quy trình sản xuất các sản phẩm của ngành nô;ng nghiệp.

Người nô;ng dân sản xuất nô;ng nghiệp truyền thống dự báo sản lượng các sản phẩm nô;ng nghiệp vẫn chủ yếu dựa vào dự báo bằng kinh nghiệm. Khi áp dụng cô;ng nghệ số và trở thành những nô;ng dân số để sản xuất họ có thể trô;ng vào dữ liệu để có kế hoạch sản xuất phù hợp. Trong sản xuất, người nô;ng dân số khô;ng chỉ mua phân bón, thuốc bảo vệ thực vật, giống mà còn mua cả dữ liệu để phục vụ sản xuất. Chuyển đổi số cho phép người nô;ng dân số bán cả sự trải nghiệm cho người mua cả một quy trình chăm sóc sản phẩm ngay từ khâu chọn giống tới khi hình thành sản phẩm; và ngược lại, người mua cũng có thể giám sát quy trình chăm sóc sản phẩm mà họ sử dụng. Chuyển đổi số cho phép người nô;ng dân số có thể so sánh giá ở nhiều nơi giúp họ khắc phục được tình trạng khô;ng còn bị ép giá.

Trong phân phối hàng hóa trê;n thị trường, bê;n cạnh phương thức phân phối hàng hóa truyền thống, nền tảng số cũng được xem là một trong những giải pháp hiệu quả, là cánh tay nối dài giúp 9 triệu hộ nô;ng dân mở rộng thị trường tiê;u thụ khắp 63 tỉnh, thành phố, gắn với 100 triệu người tiê;u dùng trong cả nước. Chuyển đổi số sẽ tạo ra nền tảng cho phép người nô;ng dân số và các ngành hàng kết nối với nhau mà khô;ng phụ thuộc vào vị trí địa lý.

Ứng dụng cô;ng nghệ số, ngoài việc mua giống, phân bón thì người nô;ng dân số trong sản xuất phải biết tích hợp, kết nối thô;ng tin dữ liệu về giá cả thị trường, tham gia mua bán tư liệu sản xuất và các sản phẩm nô;ng sản trê;n các sàn giao dịch điện tử. Thô;ng qua cô;ng nghệ số giúp vị thế của người nô;ng dân Việt Nam ngày càng thay đổi. Trong đó, thay đổi cơ bản nhất là người nô;ng dân đã bắt đầu làm chủ và ngày càng phát huy vai trò làm chủ của mình trong phát triển nô;ng nghiệp số, người nô;ng dân ngày càng được tiếp thu nhiều hơn các tiến bộ khoa học kỹ thuật do các cấp, các ngành, các phương tiện đem đến.

Thô;ng qua chuyển đổi số, người nô;ng dân số mang đến những giá trị mới và bền vững cho sản xuất nô;ng nghiệp. Việc áp dụng các cô;ng nghệ số trong nô;ng nghiệp tăng lê;n với tốc độ nhanh chóng làm thay đổi cách người nô;ng dân quản lý cây trồng, vật nuô;i của họ. Người nô;ng dân ngày càng sử dụng cô;ng nghệ số vào hoạt động sản xuất cho hiệu quả năng suất, chất lượng sản phẩm ngày càng tốt hơn, đưa nền nô;ng nghiệp Việt Nam dần chuyển đổi từ nô;ng nghiệp truyền thống sang nô;ng nghiệp hiện đại. Hiện, người nô;ng dân Việt Nam và các nước châu Á đang quan tâm tới việc ứng dụng thiết bị bay khô;ng người lái (UAV/Drone), mạng lưới internet vạn vật (IOT) vào sản xuất cũng như đưa nô;ng sản lê;n sàn thương mại điện tử để tiê;u thụ.

Đại dịch Covid-19 đang đẩy nhanh tốc độ ứng dụng các cô;ng nghệ mới, nền tảng số để giải quyết tình trạng ùn ứ sản phẩm nô;ng sản của người nô;ng dân khi vào cao điểm thu hoạch sản phẩm nô;ng sản, giúp người nô;ng dân giữ giá sản phẩm, tránh bị thương lái ép giá. Người dân tại các địa phương khác trong nước và quốc tế có thể mua sản phẩm một cách thuận tiện, nhanh chóng kể cả trong bối cảnh hạn chế đi lại do dịch bệnh thô;ng qua sàn thương mại điện tử. Đại dịch Covid-19 đã tạo ra bước ngoặt về chuyển đổi số trong thương mại nô;ng sản, thay vì sản xuất và bán hàng truyền thống nhỏ lẻ, người nô;ng dân số đã bắt đầu quen với việc đưa nô;ng sản của mình lê;n sàn thương mại điện tử để bán với số lượng lớn và giá cả tốt hơn. Hiện, Cục Xúc tiến thương mại đã lê;n kế hoạch phối hợp với Vietnam Post triển khai chương trình hỗ trợ nô;ng dân, chủ trang trại trê;n cả nước bán nô;ng sản hàng hóa, nô;ng sản thực phẩm an toàn theo hình thức trực tuyến.

Có thể thấy, bê;n cạnh việc tận dụng nền tảng trực tuyến để kết nối tiê;u thụ nô;ng sản, thì cô;ng nghệ thô;ng tin còn giúp nô;ng dân tiếp cận dữ liệu về khoa học - kỹ thuật mới, thay đổi quy trình sản xuất theo hướng hiện đại, tìm kiếm thị trường và quảng bá sản phẩm. Để thích ứng với chuyển đổi số, việc tập huấn, nâng cao kỹ năng số cho người nô;ng dân là yê;u cầu cấp thiết cần được các cấp, các ngành quan tâm hơn nữa. Người nô;ng dân ngoài chủ động học hỏi nâng cao vai trò của người nô;ng dân trong chuyển đổi số nô;ng nghiệp, có thể chủ động lê;n sàn, giao lưu với người mua, giới thiệu những đặc tính khác biệt của sản phẩm để có giá trị cao hơn./.

TS. Cao Thị Hà

Học viện hành chính quốc gia


Link Tải Xuống giải trí trực tuyến PT